Domingos José Paciência Oliveira, được gọi đơn giản là Domingos khi còn là cầu thủ (sinh ngày 2 tháng 1 năm 1969), là một cựu cầu thủ bóng đá người Bồ Đào Nha từng chơi ở vị trí tiền đạo, hiện là huấn luyện viên. Cùng tìm hiểu về Domingos Paciência là ai trong bài viết được trích nguồn từ https://www.iranianscholarsforliberty.com/ sau đây nhé.
Tiểu sử Domingos Paciência
Họ và tên | Domingos José Paciência Oliveira | ||
---|---|---|---|
Ngày sinh | 2 tháng 1 năm 1969 (55 tuổi) | ||
Nơi sinh | Leça da Palmeira, Bồ Đào Nha | ||
Chiều cao | 1,74 m (5 ft 9 in) | ||
(Các) vị trí | Tiền đạo |
Anh đạt được thành công với cả Porto và đội tuyển quốc gia Bồ Đào Nha, xuất hiện trong hơn 350 trận đấu chính thức với đội cũ trong hơn 12 mùa giải (gần 150 bàn thắng) và đại diện cho đội sau tại Euro 1996. Sau khi hoàn thành chứng chỉ vào năm 2005, Domingos tiếp tục sự nghiệp huấn luyện viên, đặc biệt là giúp Braga lọt vào trận chung kết Europa League 2011.
Sự nghiệp thi đấu của Domingos Paciência
Là học viên của FC Porto từ năm 13 tuổi, Domingos sinh ra ở Leça da Palmeira, Matosinhos và tỏ ra là một tay săn bàn xuất sắc dù thể chất yếu. Tomislav Ivić cuối cùng quyết định anh nên là người thay thế cho Fernando Gomes đã già nua, và ra mắt đội một ở tuổi 19, giành danh hiệu Vua phá lưới ở Primeira Liga trong mùa giải 1995–96. Trước đó, vào năm 1990–91, anh đã tham gia vào trận chiến ngày cuối cùng để tranh giải Bola de Prata với Rui Águas của SL Benfica, với đội của Águas đã giành chức vô địch trận đấu trước đó: Domingos chơi trước, vượt qua Vitória de Guimarães bốn bàn trong chiến thắng 5–0 trên sân nhà, với 20 bàn thắng lên 24 bàn. Águas xuất hiện vài giờ sau đó trong trận gặp SC Beira-Mar, và ghi hai bàn thắng trong hiệp hai trong chiến thắng chung cuộc 3–0, kết thúc với tỷ số 25.
Trong mùa giải 1997–98, Domingos chuyển đến CD Tenerife của Quần đảo Canary, một năm sau khi Porto ký hợp đồng với tiền đạo sung mãn Mário Jardel. Ở đó, anh đá cặp với Roy Makaay, nhưng chưa bao giờ thích nghi hoàn toàn với La Liga, chỉ ghi bàn một lần trong mùa giải cuối cùng – kết thúc bằng việc xuống hạng – trong trận thua 1-2 trên sân nhà trước Deportivo Alavés.
Cuối cùng, Domingos trở lại Porto hai năm sau, đội đã trả giá cao hơn Sporting CP vào giờ thứ mười một. Dù được khán giả yêu mến nhưng anh không còn áp đặt mình như trước nữa và giải nghệ vào cuối mùa giải 2000–01. Anh đã giành được bảy chức vô địch, năm cúp quốc gia và bốn siêu cúp.
Với Bồ Đào Nha, Domingos ghi 9 bàn sau 34 lần ra sân, trong đó có 1 bàn vào lưới Croatia tại UEFA Euro 1996 khi đội tuyển quốc gia lọt vào tứ kết.
Sự nghiệp huấn luyện viên
Leiria và Académica
Sau khi giải nghệ, Paciência được bổ nhiệm huấn luyện đội trẻ của Porto và sau đó là đội dự bị. Sau khi hoàn thành khóa học quản lý cấp độ ba, anh được thuê làm quản lý của UD Leiria cho năm 2006–07. Anh ấy cũng mở một trường dạy bóng đá ở Matosinhos, cùng với đồng đội cũ ở Porto, Rui Barros.
Mặc dù có thành tích tổng thể tốt, dẫn dắt đội cán đích ở vị trí thứ bảy trong giải đấu hàng đầu, Paciência đã rời câu lạc bộ trước khi kết thúc mùa giải sau khi bất hòa với chủ tịch và cũng là cầu thủ Adriano Rossato. Chiến dịch tiếp theo, ông nắm quyền điều hành đội bóng đồng hương Académica de Coimbra sau khi Manuel Machado từ chức.
Trong hai năm đầu tiên phụ trách Học sinh, Paciência đã dẫn dắt họ giành được hai chiến thắng liên tiếp trước Benfica (3–0, 1–0). Trong mùa giải thứ hai, anh ấy đã huấn luyện đội đạt vị trí thứ bảy chung cuộc, vị trí tốt nhất trong 24 năm.
Braga
Vào tháng 6 năm 2009, Paciência từ chức sau khi nhận được lời đề nghị từ SC Braga, đội vừa mất huấn luyện viên Jorge Jesus vào tay Benfica. Trong mùa giải đầu tiên, mặc dù khởi đầu tệ hại bao gồm việc bị IF Elfsborg loại khỏi UEFA Europa League ở vòng sơ loại thứ ba, anh ấy đã dẫn dắt đội Minho khi họ dẫn đầu giải đấu trong phần lớn thời gian của chiến dịch và cuối cùng giành được vị trí thứ hai – thành tích tốt nhất từ trước đến nay, sau Benfica – và sau đó là suất tham dự UEFA Champions League; đội chỉ trở thành đội thứ năm trong nước lọt vào vòng bảng của giải đấu, sau khi loại Celtic (tổng cộng 4–2) và Sevilla FC (5–3) ở vòng loại.
Sau khởi đầu tệ hại ở cả chiến dịch trong nước và Champions League, Braga dần dần lấy lại phong độ, cán đích ở vị trí thứ tư ở giải đấu trước và thứ ba ở giải đấu sau, qua đó đủ điều kiện tham dự Europa League nơi Paciência dẫn dắt đội vào chung kết, sau loại bỏ Lech Poznań, Liverpool, FC Dynamo Kyiv và Benfica; như anh ấy đã tuyên bố vào tháng 5 năm 2011, anh ấy đã rời vị trí của mình sau trận đấu với Porto.
Sporting CP
Vào ngày 23 tháng 5 năm 2011, Paciência được mệnh danh là người kế nhiệm José Couceiro tại Sporting. Việc chuyển đến Lisbon của anh ấy phần lớn được mong đợi sau cuộc bầu cử của Luís Godinho Lopes làm chủ tịch câu lạc bộ.
Trong mùa giải đầu tiên, Paciência đã giúp Những chú sư tử lọt vào trận chung kết Cúp Bồ Đào Nha đầu tiên sau 4 năm. Tuy nhiên, vào ngày 13 tháng 2 năm 2012, khi đội đang xếp thứ tư trong giải đấu, kém đội đầu bảng Benfica 16 điểm, ông bị sa thải sau trận thua 0-0 trên sân khách trước CS Marítimo.
Deportivo
Vào ngày 30 tháng 12 năm 2012, Paciência ký hợp đồng với câu lạc bộ hạng nhất Tây Ban Nha Deportivo de La Coruña, khi đội bóng Galicia đang vật lộn ở cuối bảng. Trong trận đấu đầu tiên của anh ấy, đội của anh ấy đã đánh bại Málaga CF 1–0 trên sân nhà, đánh dấu chiến thắng đầu tiên sau hơn hai tháng.
Paciência từ chức tại Depor vào ngày 10 tháng 2 năm 2013, sau khi không thể giúp đội bóng cải thiện từ vị trí thứ 20 và cuối cùng trên bảng xếp hạng.
Kayserispor
Vào ngày 17 tháng 1 năm 2014, Paciência được bổ nhiệm làm huấn luyện viên mới của Kayserispor, kế nhiệm Robert Prosinečki. Trận ra mắt của anh ấy diễn ra chín ngày sau đó, trong trận thua 0–3 Süper Lig trước Sivasspor. Sau chuỗi thành tích tệ hại khiến câu lạc bộ chỉ ghi được một chiến thắng trong bảy trận đấu, Paciência bị sa thải vào ngày 17 tháng 3 năm 2014.
Vitória Setúbal
Vào ngày 22 tháng 5 năm 2014, Paciência trở lại Bồ Đào Nha để tiếp quản Vitória FC để thay thế Couceiro. Ông được miễn nhiệm vào ngày 19 tháng 1 năm sau.
APOEL
Vào ngày 21 tháng 5 năm 2015, Paciência đã đồng ý các điều khoản với đương kim vô địch Síp APOEL FC, thay thế Thorsten Fink, người đã bị sa thải vào ngày 11 tháng 5 khi kết thúc mùa giải. Chỉ sau ba tháng nắm quyền, câu lạc bộ đã chấm dứt hợp đồng với anh sau khi đội không lọt vào vòng bảng của UEFA Champions League sau khi bị FC Astana loại, cũng như thất bại ở Siêu cúp Síp trước AEL Limassol.
Belenenses
Paciência được bổ nhiệm tại CF Os Belenenses vào ngày 20 tháng 4 năm 2017, ký hợp đồng cho đến tháng 6 năm 2018 và cuối cùng dẫn dắt đội đến vị trí thứ 14 trong giải đấu hàng đầu. Tuy nhiên, vào tháng 1 năm đó, anh rời đi theo thỏa thuận chung và được thay thế bởi cựu cầu thủ câu lạc bộ Silas.
Danh hiệu và thành tích
Cầu thủ
Porto
- Primeira Liga: 1987–88, 1989–90, 1991–92, 1992–93, 1994–95, 1995–96, 1996–97
- Taça de Bồ Đào Nha: 1987–88, 1990–91, 1993–94, 1999–2000, 2000–01
- Supertaça Cândido de Oliveira: 1991, 1994, 1996, 1999
Cá nhân
- Cầu thủ xuất sắc nhất năm của Bồ Đào Nha: 1990
- Quả bóng vàng Bồ Đào Nha: 1990
- Vua phá lưới Primeira Liga: 1995–96
Huấn luyện viên
- Á quân UEFA Europa League: 2010–11
Bài viết là tổng hợp những thông tin thú vị về Domingos Paciência là ai cùng các tin tức liên quan để bạn tham khảo và ngày càng thêm yêu thích bộ môn bóng đá hơn nữa. Ngoài ra đừng quên theo dõi lịch thi đấu bóng đá hôm nay để cập nhật lịch thi đấu hấp dẫn mỗi ngày nhé.